Chuyển Hóa Stress
Stress là từ được mượn từ bộ môn vật lý học và kỹ thuật, nghĩa chính xác của nó là "tạo một lực đủ mạnh lên một vật để làm cho vật đó biến dạng". Tuy nhiên, trong lĩnh vực tâm lý, tâm thần stress liên quan đến sự phản ứng của một người (về thể chất và cảm xúc) đối với áp lực từ môi trường cũng như từ chính bản thân.
Có hai loại stress căn bản. Một là stress liên quan đến sự mất mát như mất người thân yêu, mất việc hay mất một sự tôn kính đối với bản thân. Hai là stress liên quan đến sự đe dọa đối với tình trạng, mục tiêu, sức khỏe hay an toàn.
Stess là một phần tất yếu của cuộc sống, nó làm cho ta lúc nào cũng bị khích động (căng thẳng và lo lắng). Tình trạng có thể vượt quá sức chịu đựng của con người, gây đau khổ về thể chất hoặc tinh thần cả hai. Stress có thể là những kết quả của những vấn đề như sự thay đổi, những rắc rối của cá nhân, bệnh tật, cái chết của vợ chồng hay bè bạn, ly thân, ly dị, vấn đề tình dục, thay đổi chỗ ở, bỏ nhà đi hoang, có thai ngoài ý muốn, bị sa thải, thất nghiệp, quan hệ không tốt với cấp trên, đồng nghiệp,... Mỗi giai đoạn của cuộc đời sẽ có những stress khác nhau. Trẻ em thì gặp những vấn đề về gia đình và trường học, như cha mẹ bất hòa, áp lực của việc học, quan hệ không tốt với thầy cô và bạn bè. Khi bước vào cao đăng hay đại học thì phải đối mặt với việc chọn nghành học hay lo lắng về công ăn việc làm sau khi ra trường. Rồi vấn đề hôn nhân và sự nghiệp, v.v.... Stress không chỉ là vấn đề tinh thần hay cảm xúc mà nó có thể dẫn đến những căn bệnh từ nhẹ cho tới chết người như loét đường tiêu hóa, rối loạn tiền đình, cao huyết áp, đột quỵ. Nếu tình trạng stress kéo dài sẽ làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể làm cho cơ thể không đủ khả năng chống lại các loại bệnh truyền nhiễm. Các chuyên gia còn cảnh báo rằng tình trạng stress nặng và kéo dài có thể gây ra cả bệnh ung thư.
Stress có tác hại như thế cho nên chúng ta phải làm sao để quản lý tâm trạng tiêu cực này. Những việc chúng ta cần làm là phải ăn uống khoa học, ngủ đủ giấc, tập thể dục mỗi ngày và dành thời gian làm những điều chúng ta thích. Không hút thuốc và lạm dụng các chất kích thích như rượu, bia, ma túy. Đối với những người quá nhạy cảm, dễ bị ngoại cảnh tác động thì cần phải cố gắng tránh những nguyên nhân gây ra stress cũng như học những phương pháp thư giãn và cân bằng tâm lý. Đặc biệt là những bước thực tập/ tu tập sau đây của Phật giáo có thể giúp chúng ta quản lý, điều tiết được những cảm xúc tiêu cực như stress đồng thời đưa đến hạnh phúc lâu dài.
Phát triển đạo đức
Phật giáo có những phương pháp để giải tỏa stress và từng bước đem lại hạnh phúc, trong đó giữ gìn 5 giới cấm là điều đầu tiên cần phải làm. Năm giới bao gồ không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Một trong những nguyên nhân làm cho con người bị căng thẳng, lo lắng, bất an là do mặc cảm tội lỗi, và năm giới này chính là để giúp người ta tránh được mặc cảm đó. Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy rằng, người làm ác sẽ đau khổ ở đời này và đời sau. ngược lại, người làm lành sẽ hạnh phúc đời này và đời sau. Phật giáo nhấn mạnh rằng hành vi bất thiện sẽ làm tăng thêm stress trong khi việc làm thiện sẽ đem lại cuộc sống an vui. Ngoài 5 giới ra, Phật giáo còn khuyến khích Phật tử tu thêm 3 giới nữa là không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát; không nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ và không ăn quá giờ ngọ (Bát quan trai giới). Giữ 8 giới này nhằm rèn luyện chúng ta sống giản dị, chỉ sở hữu những gì chúng ta cần hơn những thứ chúng ta muốn. Một cuộc sống dơn giản với ít sở hữu và biết đủ là điều rất được tán thán trong Phật giáo. Ngược lại, trích trữ và hám lợi sẽ làm cho người ta bị căng thẳng.
Phòng hộ giác quan
Bước tiếp theo của quá trình tu tập để đạt được hạnh phúc là làm chủ và phòng hộ các giác quan. Nếu như các giác quang không được phòng hộ thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thứ rắc rối. Ví dụ như khi mắt thấy những hình tướng ưa thích thì sinh tham ái và đắm nhiễm, còn thấy hình tướng không ưa thích thì ta chán ghét, sân si. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Nếu không tu tập để làm chủ các giác quan thì chúng ta sẽ rất dễ dàng bị tác động (ưa và không ưa thích) bởi các đối tượng bên ngoài. Nếu chúng ta để các giác quan sai sử chúng ta thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều phiền phức. Ngược, lại nếu làm chủ được các giác quan thì chúng ta sẽ có được niềm vui thuần khiết. Đó là niềm vui trong sáng từ nội tâm không bị cảnh trần làm cho ô nhiễm và niềm vui của một người tự do khộng bị ai (các giác quan và đối tượng của giác quan) sai khiến. Những niềm vui do giác quan đem lại thường kéo dài theo sự căn thẳng (stress) bất mãn, còn niềm vui nội tâm thì không bị như vậy mà chỉ có bình an và mãn nguyện mà thôi.
Thiền định
Bước thứ ba là để kiểm soát stress và tạo ra hạnh phúc là tu tập thiền định. Cũng như chúng ta chăm sóc và nuôi dưỡng cơ thể bằng những thức ăn thích hợp và chế độ y tế đúng mức, tinh thần chúng ta cũng cần sự quan tâm và nuôi dưỡng như vậy. Khi cái tâm chưa được huấn luyện thì nó rất manh động, nhưng khi nó được điều phục và làm cho vững chãi thì nó sẽ mang lại hạnh phúc lớn. Có hai loại thiền căn bản là thiền Chỉ (Samatha) và thiền Minh Sát (Vipassana). Thiền Chỉ là cách tập trung tư tưởng để tịnh chỉ vọng tưởng, còn thiền Minh Sát là quán sát và thấu hiểu bản chất thật của các hiện tượng của thân và tâm. Cả hai loại thiền này đều rất hữu ích để vượt qua stress. Trong kinh Đức Phật đã đưa ra những ví dụ để minh họa trong việc giảm thiểu stress như sau. Ví như một người mượn nợ để kinh doanh. Anh ta kinh doanh thành công và không chỉ trả được hết nợ mà còn dư ra một số vốn để tiếp tục kinh doanh. Cảm giác của anh ta lúc này rất nhẹ nhõm và khoái lạc. Thiền cũng đem lại cho hành giả cảm giác thơ thới như vậy. Ví dụ thứ hai diễn tả một người chịu đựng căn bệnh trầm kha trong một thời gian dài. Sau đó nhờ chữa trị mà anh ta khỏi bệnh, khỏe mạnh và sinh hoạt lại bình thường. Cảm giác anh ta lúc này rất tuyệt vời. Ví dụ thứ ba nói về cảm giác của một người tù được thả ra sau một thời gian dài bị giam hãm trong nhà giam. Ví dụ thứ tư là nói về cảm giác của một người thoát kiếp nô lệ, được làm ngườ tự do. Và ví dụ thứ năm nói về một người bị lạc đường trong xa mạc không có nước uống và thức ăn. Sau đó được cứu thoát về nơi an ổn. Thiền định cũng làm cho người ta thấy an ổn như vậy trước những biến động của cuộc sống, những căn thẳng bất an, lo lắng của hệ thần kinh.
Phát triển cảm xúc tích cực
Những cảm xúc tích cực như từ - bi - hỷ - xả có khả năng điều trị tình trạng stress của con người. Mối quan hệ không tốt của bản thân đối với người khác và hoàn cảnh xung quanh là một trong những nguyên nhân gây ra stress ở gia đình và công sở. Tâm từ là một thái độ tích cực mà một người tu tập có thể đem lại an vui cho mình và người khác, tạo nên mối quan hệ lành mạnh và hái hòa giữa người và người với nhau. Bi là lòng thương xót đối với người khác trong cơn hoạn nạn, cứu giúp họ thoát khỏi khổ đau. Hỷ nói cho đủ là tùy hỷ, tức là vui với cái vui, cái được cái thành tựu của người khác. Đây là điều thật ta không phải dễ làm với bản tính hay đố kỵ của con người nói chung. Nơi nào có đố kỵ nơi đó không thể có sự đoàn kết. Không đoàn kết thì sẽ không có sự tiến bộ. Do đó tu tập tâm tùy hỷ có thể giúp cho con người và cộng đồng tiến bộ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xả không có nghĩa là từ bỏ không cần thứ gì mà là thái độ bình thản trước sự thăng trầm của cuộc sông. Có tám yếu tố thăng trầm, bao gồm; "lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc" (hưng thịnh và suy tàn, hủy nhục và tôn vinh, ca ngợi và chỉ trích, khổ đau và hạnh phúc). Nếu một người có thể tu tập và rèn luyện bản thân mình để có thể giữ thái độ bình thản, không kêu căng cũng như không chán nản khi đối mặt với tám ngọn gió này thì họ có thể tránh được tâm trạng stress và sống được cuộc đời đơn giản với cự bình an và mãn nguyện.
Chúng ta không thể thay đổi thế giới để làm cho chúng ta hạnh phúc nhưng chúng ta có thể thay đổi thái độ của mình đối với thế giới để không bị tác động bởi những điều bất như ý sảy ra xung quanh chúng ta. Và Phật pháp đã dạy cho chúng ta cái cách để làm được điều đó, như những bước đã trình bày trên đây.
Nguồn: Chuyển hóa stress - Báo Giác Ngộ - số 1003/14-6-20199. Thích Trung Hữu lược dịch.